Vị trí của người phụ nữ Nhật Bản thay đổi rất nhiều trong công đoạn lịch sử. những nghiên cứu về lịch sử phụ nữ cho thấy, ít nhất là trước thế kỷ 11, phụ nữ Nhật Bản luôn đóng vai trò trung tâm trong gia đình, giống như đa dạng xã hội cái hệ. không tính đấy, phụ nữ còn có ảnh hưởng đặc thù to to đối mang tôn giáo và chính trị. Trong thế kỷ 7 và thế kỷ 8, một vài người phụ nữ vươn lên là Nữ hoàng, ví dụ như các nữ hoàng Suiko, Saimei, Jito và Koken.
>>> Tham khảo tour du lịch nhật bản
Từ thế kỷ 6 trở về sau, cùng sở hữu sự du nhập của đạo Khổng và Phật giáo, xã hội chuyển dần sang cơ cấu gia trưởng. Tuy nhiên, những phụ nữ tầng lớp thượng lưu vẫn thường là những người có học cao và sở hữu những quyền quan trọng như quyền thừa kế gia tài, cho đến lúc họ bị tước mất những quyền này trong thời kỳ chuyển sang kinh tế phong kiến theo hướng dùng cho chiến tranh, bắt đầu từ thế kỷ 12. Mấy trăm năm hơi hòa bình trong thời Edo (1600-1868) dường như càng củng cố cơ cấu gia trưởng và đẩy người phụ nữ vào vai trò phụ thuộc. Chỉ từ thời Minh Trị (1869-1912) trở đi, nhất là từ sau Thế chiến 2, lúc với phổ biến cơ hội công ăn việc khiến cho cũng như giáo dục, cộng với phổ biến cải thiện về pháp luật, phụ nữ Nhật Bản mới phần nào sở hữu vị trí xứng đáng.
Sau Minh Trị Duy Tân năm 1868, việc áp dụng giáo dục phổ cập vào năm 1873 mang nghĩa là ngày càng rộng rãi trẻ em gái được tới trường, ít nhất cũng hết bậc tiểu học. Song việc giáo dục cho các em gái bị tụt hậu so có việc giáo dục cho các em trai, và chính sách của chính phủ nêu rõ rằng, bắt buộc đào tạo sao cho những em gái trở thành người nội trợ nhiều năm kinh nghiệm, giữ truyền thống coi phụ nữ là “những người vợ đảm và các bà mẹ thông minh”, tiếng Nhật gọi là ryosai kembo.
một số phụ nữ cũng tham gia những cuộc đấu tranh dẫn tới Minh Trị Duy Tân, nhưng Luật Dân sự Minh Trị năm 1898 chỉ dành cho họ các quyền hạn chế như quyền li dị và quyền với tài sản, lại bắt phải mang sự đồng ý của người chồng trong hầu hết các vụ kiện pháp lý.
lúc Thế chiến 2 kết thúc, lực lượng chiếm đóng lấy cơ cấu dân chủ của Mỹ làm cho hình cái buộc phải những đạo luật về phụ nữ ở Nhật Bản kể chung cũng tương tự như những đạo luật của Mỹ. Hiến pháp năm 1947 cấm phân biệt giới tính trong chính trị, kinh tế, quan hệ xã hội, đồng thời khẳng định các đạo luật được ban hành trên cơ sở bình đẳng giới tính và tôn trọng nhân phẩm của cá nhân. Luật Dân sự cũng khẳng định sự bình đẳng giữa vợ và chồng. những tòa án gia đình can thiệp vào những vấn đề như tranh chấp tài sản và quyền nuôi con. Song thực tế, ko phải những quy định trong luật luôn được thực thi bắt buộc xã hội gia trưởng của Nhật Bản vẫn là 1 chủ đề được kể tới rất nhiều, trong lúc nước Nhật hiện đại đang chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới.
>>> Xem thêm: thông tin du lịch nhật bản tại đây
Ở Nhật Bản, theo truyền thống vợ và chồng hầu như sở hữu thế giới riêng và thực tế này hiện vẫn hơi nhiều, tuy có xu hướng tiến đến quan hệ chặt chẽ và trao đổi sở hữu nhau phổ biến hơn. Cuộc sống của người chồng tập trung vào công việc, dành phổ biến thời gian rỗi có các đồng sự nam giới của ta trong mối quan hệ xã hội không có sự tham gia của vợ. Còn cuộc sống của người vợ tập trung vào gia đình, con chiếc và hàng xóm. Ở nhà, người vợ sở hữu quyền to lớn vì thường là người chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc điều hành ngân sách của gia đình và luôn quyết định về những việc liên quan đến con loại. nhắc chung người vợ ở Nhật Bản không đề nghị và ko trông đợi chồng giúp đỡ những công việc nhà, thậm chí ngay cả khi bản thân người vợ nên đi làm.
Trong những năm thịnh vượng vào thập kỷ 60, số cuộc kết hôn tăng mạnh. Nhưng vừa rồi, tuổi lập gia đình trung bình đã nâng cao lên. Theo số liệu năm 1997, tuổi kết hôn lần đầu trung bình của nam là 28,5 và của nữ là 26,6. Số lượng phụ nữ không lấy chồng cũng nâng cao lên vì trình độ học vấn cao và cơ hội nghề nghiệp đã tạo cần sự độc lập về kinh tế.
Số lượng nữ bạn trẻ học lên cao sau khi phải chăng nghiệp phổ thông nâng cao dần mỗi năm đề cập từ Thế chiến 2. Năm 1989, tỉ lệ nữ giới vào đại học và cao đẳng là 36,8%, lần đầu tiên vượt tỉ lệ của nam giới (35,8%). Vào năm 1997, tỉ lệ này lên đến mức kỷ lục là 46,8% trong khi tỉ lệ của nam giới giảm xuống còn 34,5%.
nói từ lúc phụ nữ Nhật Bản được quyền đi bỏ phiếu vào năm 1945, hầu như trong cuộc bầu cử nào số cử tri nữ cũng cao hơn cử tri nam giới. Tuy nhiên, đại diện của phái nữ trong cuộc sống chính trị vẫn quá ít. Năm 1950, họ chỉ có 3,4% đại diện trong lưỡng viện quốc hội. Tỉ lệ này tăng không đáng kể cho tới tận năm 1986 và vào năm 1999, tức là 52 năm sau khi với những nữ nghị sĩ thứ nhất, quốc hội cũng mới chỉ sở hữu 67 nữ thượng và hạ nghị sĩ, chiếm 8,9%. Trong chính phủ trung ương, phụ nữ kể chung chỉ nắm giữ các chức vụ cao trong các ủy ban hoặc vụ liên quan đến các vấn đề phụ nữ hoặc giáo dục. ví như bà bộ trưởng bưu chính viễn thông Noda Seiko trong chính phủ của thủ tướng Obuchi là siêu hiếm hoi.
Tỉ lệ tham gia của phụ nữ trong các ủy ban và hội đồng cố vấn quốc gia vào năm 1975 chỉ có 2,4%, đến tháng 9/1998 tăng gấp hơn 7 lần nhưng cũng mới chỉ đạt 18,3%.
Số lượng phụ nữ nắm giữ chức vụ cao trong những cơ quan chính quyền đang nâng cao lên, tuy còn ít ỏi. Vào tháng 12/1998, với 4 nữ thị trưởng và 9 phó tỉnh trưởng nữ. Nhật Bản cũng với 7 nữ đại sứ và 5 phụ nữ nắm giữ những chức vụ cao tại LHQ. Bà Ogata Sadako là người Nhật Bản đầu tiên được bầu làm Cao ủy LHQ phụ trách người tị nạn. Bà từng nắm giữ những chức vụ quan trọng khác như giám đốc nhân sự UNESCO, cố vấn phó tổng thư ký LHQ về các vấn đề kinh tế và xã hội, v,v…
>>> Tham khảo: dịch vụ du lịch hàn quốc giá rẻ
0 nhận xét:
Đăng nhận xét